Một số truyền kể về Đồng Sĩ Bình Đồng_Sĩ_Bình

Ông là người nổi tiếng, có uy tín, được nhiều người mến phục, đến độ có khả năng cảm hóa người khác, kể cả người đang làm việc cho thực dân Pháp chịu trách nhiệm giám sát mình, được truyền kể như giai thoại.

Chuyện thứ nhất

Khi kết thúc lễ đặt thi hài cha vào quan tài, thấy người đến bắt, ông mặc lại đại tang, không chịu để chúng dẫn đi thầm lặng bằng thuyền. Ông biện luận theo phong tục tập quán, một người con, nhất là con cả, chỉ có thể rời thi hài cha mình khi bị cưỡng bức. Thế là tay bị trói, những người bị trưng dụng để khiêng ông long lanh nước mắt. Một tiểu đội lính dõng mang vũ khí đi theo "hộ tống". Chúng đưa ông đi qua các làng Mậu Tài, Thanh Tiên, Thế Vinh và Tiên Nộn, qua sông Hương, đến thị trấn Bao Vinh, vào Huế. Từ đó đoàn người theo sau dọc theo sông Đông Ba, đường Paul Bert, nay là đường Trần Hưng Đạo (hồi đó và nay vẫn là phố thương mại sầm uất nhất của thành phố). Và sau khi qua cầu Tràng Tiền (người Pháp gọi là Clémenceau), đoàn người vào phố Jules Ferry, nay là phố Lê Lợi. Ở đó có khách sạn Morin lớn nhất thành phố, tòa nhà của Ngân hàng Đông Dương, các sở và các biệt thự của các công chức cao cấp xứ Trung Kỳ, của tỉnh Thừa Thiên và của thành phố Huế đến nhà tù tỉnh ở phố cạnh đó. Suốt đoạn đường ông bị khiêng đi, chừng 6 – 7 km, người ta nhìn theo người thanh niên mặc y phục đại tang ấy, hai tay bị trói chặt và ngồi trên một cái trạc chuyển phân. Kẻ thì ái ngại, kẻ thì ý thức phản đối bắt đầu trỗi dậy[15].

Chuyện thứ hai[16]

Quan Tổng đốc Bình Phú (Bình Định – Phú Yên) Nguyễn Đình Hiến vì mến tài Đồng Sĩ Bình mà gần như "công khai" biệt đãi người chí sĩ yêu nước trẻ tuổi này. Ấy là vào năm 1926, ông mới 22 tuổi, chuyển từ Huế vào làm thông phán[17] Tòa sứ Quy Nhơn, nhưng lại âm thầm tham gia hội kín chống Pháp. Có lần ông cùng một số đồng chí khác vượt gần 50 cây số từ Quy Nhơn lên mạn Tây Sơn hạ đạo, vùng Phú Lạc, Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn, Bình Định) để viếng mộ lãnh tụ Cần Vương Mai Xuân Thưởng, rồi tổ chức lễ truy điệu vị Nguyên soái này và viết đôi câu đối tỏ lòng khâm phục để thờ. Thực dân Pháp biết được, bắt ông giam vào nhà tù Bình Định, giao cho quan Tổng đốc Nguyễn Đình Hiến xét hỏi. Lạ thay, quan Tổng đốc không những không điều tra xét hỏi gắt gao như bao người tạm giam khác mà còn sai người hằng ngày lén mang cơm nước vào nhà giam cho người tù trẻ. Thỉnh thoảng quan còn tới tận nhà giam thăm viếng, hoặc bảo người đưa ông về tư dinh cùng đàm luận văn chương, thế sự.

Một người em họ của ông Bình là Đồng Sĩ Quế (hiện ở Huế) còn nhớ hai bài thơ thất ngôn bát cú (chỉ còn nhớ được mỗi bài sáu câu), xướng của Nguyễn Đình Hiến, họa của Đồng Sĩ Bình:

Bài Xướng

Chớ vội mà lầm chữ lợi danh

Ta nào còn phải mấy ai tranh

Thành đồng, oai dậy quyền vương ngoại

……

Hỡi người tuổi trẻ xin đừng vội

Chớ vội mà lầm chữ lợi danh

Bài Họa

Là đồ vô học, đứa vô danh

Ta chẳng kiên mà cũng chẳng tranh

Mượn chốn Đồ Bàn  chôn chủng tộc

Đem văn Tiến sĩ bán gia đình

……

Dù trau nét mắt nên da trắng

Thì cũng xu thời với lợi danh.

Chuyện còn kể, có khi đọc bản biện hộ của Đồng Sĩ Bình viết bằng chữ Hán, thấy hay quá, quan bèn cao hứng cầm bút khuyên son lên cả trang giấy. Sau sực nhớ ra, quan vội bảo "tù nhân" viết lại bản khác để xếp vào hồ sơ lưu!

Việc làm ấy của quan Tổng đốc Nguyễn Đình Hiến bị Công sứ Quy Nhơn biết được, gửi thư khiển trách. Quan Tổng đốc không trả lời, coi như chẳng có việc gì. Quan Công sứ bèn bẩm báo lên tòa Khâm sứ Trung Kỳ, yêu cầu triều đình Huế điều Tổng đốc Nguyễn Đình Hiến về lại Kinh sư[18] để cách ly chuyện làm "xằng bậy", tránh ảnh hưởng không tốt trong dư luận quần chúng.

Chuyện thứ ba[16]

Đồng Sĩ Bình cảm hóa một cách nhanh chóng một sếp lao ở Kon Tum. Ấy là vào năm 1928, ông đang bị giam giữ tại nhà tù Ban Mê Thuột thì bị mắc bệnh ho lao. Thực dân Pháp chuyển ông sang giam ở Kon Tum. Ông được đưa về tạm trú tại nhà ngục Kon Tum vài hôm để chuyển tiếp lên nhà giam Đăk Tô. Chỉ có 2 hôm ở nhà ngục Kon Tum thôi mà, không biết bằng cách nào, ông cũng đã kịp làm cho ông Đội Phụng (tức Huỳnh Đăng Thơ, chỉ huy lính Khố xanh (lính tập) canh gác nhà ngục) tỏ lòng khâm phục và bắt đầu suy nghĩ về ý thức chính trị. Chuyện này được Ngô Đức Đệ [5] viết trong hồi ký Từ Hà Tĩnh đến nhà đày Kon Tum: "Năm 1928 khi anh Đồng Sĩ Bình bị địch đưa từ nhà lao Buôn Ma Thuột đi giam ở Đăk Tô, tạm trú ở lao Kon Tum hai hôm, Huỳnh Đăng Thơ đã tỏ ra khâm phục anh Bình và đồng chí Thơ đã bắt đầu có ý thức chính trị từ đó". Có lẽ đó là tiền đề để 2 năm sau,  năm 1930, khi Ngô Đức Đệ[5] bị đày lên Kon Tum, đã tuyên truyền giác ngộ được Đội Thơ một cách dễ dàng và nhanh chóng giới thiệu kết nạp ông Đội này làm đảng viên đầu tiên ở Kon Tum

Chuyện thứ tư

"…tôi (Lê Văn Hiến) nhớ lại một anh em chính trị phạm tên là Đồng Sĩ Bình, cũng vì thạo tiếng Pháp mà bị “ăn hèo” một bữa thất điên bát đảo! Nguyên trước Bình có đi đày Ban Mê Thuột mấy năm, học nói tiếng Rhadé rất thạo. Khi bị bắt lần thứ hai, Bình bị đày lên Kon Tum, rồi Đăk Xút, Đăk Pao. Bấy giờ Bình tự tin rằng biết tiếng dân tộc thiểu số thì chắc được biệt đãi, khỏi phải bị hành hạ, đánh đập như người khác. Vô ý trong lúc nói chuyện với lính, Bình lại lộ rằng mình thông thạo cả tiếng Pháp, làm cho tên đội Kiáp là người độc ác nhất trong bọn  để ý đến Bình. Rồi một hôm trong lúc làm việc, Bình bị Kiáp đánh cho một trận gần chết! Nó vừa đánh vừa nói: “Mày ỷ biết tiếng ông quan, tao đánh cho biết mặt”! Bình bị đánh bữa ấy rất nặng, kêu gào đến tắt tiếng, về lao ăn ngủ không được, chỉ mong chết cho khỏe thân! Sau lúc đó bệnh ho lao của Bình nặng thêm mãi đến lúc được tha về, sau một tháng thì chết!”.

Và đoạn: -“Qua hôm sau, tôi ra làm việc, đem hết sức ra mà cuốc đất để cho khỏi bị hèo, thế mà cũng không tránh khỏi. Tự nhiên thấy năm sáu tên lính cầm hèo mây to tướng đua nhau bổ vào người tôi như mưa giông, tôi nằm lăn dưới đất, lăn lóc dưới trận mưa hèo, kêu la hết sức mà chúng cũng cứ thẳng tay. Còn tên Kiáp thì ngồi trên cao nhìn xuống, lấy làm đắc ý lắm! … Xong một ngày đầu về, trong mình tôi như phỏng lửa, đỏ bầm thâm tím, không còn chỗ xót lằn roi! (…) Bạn nằm gần tôi là Đồng Sỹ Bình mới trao cho tôi một cái “bí mật” là ngày mai phải mặc ít nữa là ba cái quần, năm cái áo như mọi người, để khỏi chết dưới ngọn hèo của lính. Té ra ai nấy đều thụng thịnh trong bộ năm, bộ ba cả mà tôi không biết”. Nhờ lời "bí truyền" ấy, nên qua ngày mai tuy bị hèo nhiều, nhưng cũng đỡ bớt đau đớn"